Thứ Năm, 17 tháng 11, 2016

Chiến tranh và tham nhũng ở Việt Nam (hết)

Lederer, William J.

Phan Ba dịch từ Der Spiegel số 44/1968 (28/10/1968)
Chỉ một phần nhỏ của trên 500.000 người Mỹ ở Việt Nam là chiến đấu thật sự. Vì thế mà chỉ có một phần nhỏ của họ là sống ở chiến trường. Đại đa số, giới quân đội cũng như dân sự, sống trong thành phố.
Tôi tham quan vài căn nhà được người Việt mướn cho nhân viên người Mỹ. Nhà đầu tiên được đưa ra như là “biệt thự với hai phòng ngủ”.
Lúc bước vào, tôi nghĩ là đã lầm: nó hôi thối như một hố phân. Lúc trời mưa, nước ô uế chảy tràn từ nhà vệ sinh lên sàn nhà đã mục nát và đọng lại ở giữa đó và ở dưới sàn.
Mái nhà có hai lỗ, xô được treo ở dưới đấy – chúng hứng nước mưa. Một phòng ngủ rộng khoảng mười mét vuông rưỡi, phòng kia hơn sáu mét vuông. Phòng bếp không có bếp nấu, tủ lạnh là một cái tủ ướp lạnh cổ lổ.
Chính phủ Mỹ trả cho cái chuồng heo này hàng tháng 200 dollar, khoảng gấp ba lần tiền thuê nhà cho phép. Sống trong căn nhà tồi tàn đấy với hai phòng ngủ là tám người lính Mỹ. Viên sĩ quan Hoa Kỳ mà lính của ông ấy sống ở đây khiếu nại về căn nhà, nhưng cấp trên của ông ấy nói với ông: “Anh hãy yên lặng, viên thiếu tá đấy đã chiếu cố cho chúng ta rồi. Nếu ông ấy muốn, ông ấy còn có thể tăng thêm tiền nhà.”
Căn nhà thứ nhì mà tôi xem xét có bốn phòng ngủ tí hon. Người ta có thể gọi một phòng là phòng tắm; nó có một cái bồn vệ sinh và một vòi tắm mà chỉ có nước lạnh chảy ra từ đó.
Hai phòng ngủ có bồn rửa mặt với nước lạnh: vì thế mà ngôi nhà này được người Việt Nam gọi là “nhà có ba phòng tắm”. Theo luật lệ Việt Nam, một ngôi nhà với ba phòng tắm được phép gọi là khách sạn – và nâng tiền thuê nhà. Cái căn nhà tồi tàn này tất nhiên được xem như là khách sạn; chính phủ Hoa Kỳ trả hàng tháng 400 dollar tiền thuê nhà.
Khắp nơi trong Việt Nam, người Mỹ để cho người ta lừa dối mình và bị cho là thằng ngu. Quân đội Hoa Kỳ bị đánh cắp xe Jeep và xe tải nhiều cho tới mức phương tiện vận tải cho quân đội của chúng ta đã trở nên khan hiếm. Từ ít lâu nay, quân đội mướn lại chính những chiếc xe Jeep đã bị đánh cắp của mình từ những người mua bán trên chợ đen với giá 250 dollar hàng tháng.
Ở Nam Việt Nam có trên bốn triệu người tỵ nạn và những người bị đuổi ra khỏi quê hương họ. Phần lớn trong số họ phải chạy trốn, vì làng mạc của họ bị bom Mỹ hay đạn đại bác Mỹ phá hủy; Hiệp Chúng Quốc Hoa Kỳ đền bù cho việc đấy.
Tất nhiên là tiền bạc và hàng cứu trợ cần phải đến với người Việt Nam mà tài sản của họ đã bị hư hại hay phá hủy. Nhưng khi tôi hỏi vào khoảng 100 người Việt Nam tại hai vùng cách xa nhau trong Nam Việt Nam, tôi không thể tìm ra được một trường hợp duy nhất nào mà có một gia đìnhh người Việt thật sự đã nhận được tiền. Theo ý nhất quán của họ thì nó đã chui vào trong túi của nhân viên nhà nước người Việt.
Cả khi có ai đó vô tình bị gây thương tích hay bị giết chết, Hoa Kỳ trả tiền cho người đó hay cho gia đình của người đó.
“Ồ, ai cũng biết”, một phụ nữ người Việt nói với tôi, “rằng người Mỹ đưa tiền cho nhân viên nhà nước, nhưng nó không bao giờ đến được với người dân.”
“Anh của tôi là nhân viên trong quân đội. Anh ấy nói rằng lúc nào mà sĩ quan cần tiền thì họ đi tới người Mỹ với một yêu cầu đòi trả tiền bồi thường. Rất đơn giản – họ viết tên của một thành phố mà trong đó có một viên đạn đại bác hay một quả bom rơi xuống, và chuyển giao một danh sách tên của những người chết hay bị thương.”
“Thỉnh thoảng, người Mỹ gửi một thông dịch đến để kiểm ra vụ việc. Nhưng người thông dịch nhận tiền của nhân viên người Việt; tức là ông ấy nói rằng yêu cầu đấy là đúng. Chỉ lực lượng Thủy Quân Lục Chiến là thỉnh thoảng dứt khoát yêu cầu được kiểm tra xác chết và hư hại. Vì thế mà những người thông dịch quân đội căm ghét lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ.”
Tôi xin bằng chứng cho việc lừa đảo tiền bồi thường. Người ta tường thuật cho tôi về một huyện trưởng trong tỉnh Quảng Nam. Tôi đi theo vụ việc này và được chính viên sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến Mỹ là người trong cuộc thuật lại.
Vào một ngày nào đó, huyện trưởng thiếu tá Hao xuất hiện ở cơ sở chỉ huy dã chiến của một trung tá Thủy Quân Lục Chiến. “Trung tá”, ông ấy nói, “tôi muốn nhận tiền bồi thường cho năm người dân làng mới vừa bị giết chết ở cạnh sông.”
“Họ bị giết chết như thế nào và bởi ai?”, viên sĩ quan muốn biết. Người Việt mở một tấm bản đồ ra: “Người của anh bắn súng cối vào nơi này; một vài quả đạn rơi cạnh làng và giết chết ba người đàn ông và hai người đàn bà. Đây là huyện của tôi; tôi đến để nhận tiền cho các gia đình đó.”
“Ba người đàn ông và hai phụ nữ? Đã xảy ra vào lúc nào?” Viên thiếu tá người Việt nêu ra ngày tháng. Viên sĩ quan Hoa Kỳ biết rằng vào khoảng ngày đó và giờ đó, người Thủy Quân Lục Chiến đã bắn vào hướng đó –, họ cho rằng có du kích quân tụ tập ở đấy.
“Anh chỉ cho tôi xem các xác chết”, người Mỹ nói. Câu trả lời: “Họ ở ngoài trên xe Jeep của tôi.”
Họ đi ra ngoài. Ở phía sau chiếc xe Jeep có năm xác chết được bọc cẩn thận trong các bao xác chết. Viên sĩ quan Hoa Kỳ yêu cầu: “Thiếu tá, anh hãy đặt các xác chết xuống đất và cắt các bao xác chết ra.” – “Ồ không”, viên thiếu tá người Việt chống lại, “họ đều đầy máu và thi thể không toàn vẹn.”
“Anh đặt họ xuống đất và cắt bao xác chết ra. Tôi muốn nhìn thấy họ.” – “Trung tá, tôi bảo đảm với anh rằng anh không muốn nhìn thấy họ đâu. Họ đã bị làm biến dạng và không toàn thây, ngực bụng lòi ra ngoài, đầu họ nát tan, và bắt đầu thối rữa rồi.”
Nhưng viên sĩ quan Mỹ dỡ các xác chết xuống từ trên chiếc xe Jeep, lấy con dao bỏ túi của mình ra và cắt đứt mấy cái bao.
Đó là xác chết của năm người đàn ông, không có phụ nữ trong số đó. Không có xác chết nào mà không toàn thây hay đầy máu, mỗi xác chỉ có một dấu đạn bắn trúng; rõ ràng là những người này bị giết chết bằng đạn của súng cá nhân.
Viên sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến lặng lẽ chất các xác chết lên trở lại chiếc xe Jeep, nắm lấy khuỷu tay của viên thiếu tá người Việt và đẩy ông ấy lên ghế trước. “Thiếu tá”, rồi ông ấy nói,  “nếu như anh muốn thu tiền bồi thường cho Việt Cộng chết, tôi đề nghị anh nên đòi nó ở tổng hành dinh của Mặt trận Dân tộc Giải phóng chứ không phải tại Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. Bây giờ thì anh cút đi.” Thiếu tá Hao chạy đi.
Cựu chiến hữu trên tàu của tôi, O’Leary – tên của ông ấy được nghĩ ra – có lần muốn chỉ cho tôi xem cuộc sống về đêm ở Sài Gòn. Thế nhưng khi O’Leary đến thì anh ấy mặc quân phục. “Tôi phải trực đêm nay”, ông ấy nói, “nhưng còn thời gian vài phút”.
“Sếp”, tôi nói, trong khi chúng tôi đi lang thang, “tôi thấy rằng người Việt lường gạt chúng ta và sống rất tốt trong lúc đó. Thật ra thì đấy là một câu chuyện như thế nào?”
“Nhục nhã lắm”, ông ấy nói, “họ lừa gạt chúng ta, và chúng ta xấu hổ vì sự luồn cúi của chúng ta cho tới mức không ai nói lên sự thật. Tất cả các ông to mặt lớn – dân sự cũng như quân đội – sợ người Việt, sợ phải dẫm lên chân của họ. Khi ngẫu nhiên có ai đó trong số chúng tôi phàn nàn thì các ông to mặt lớn nhanh chóng nhắc cho chúng tôi nhớ rằng chúng ta chỉ là khách ở đây. “O’Leary thêm vào: “Điều đấy đúng, chúng ta là khách. Khách trả tiền.”
Ông ấy chỉ vào một cái máy phát điện lớn trên vỉa hè. “Cái máy phát điện này cung cấp điện cho ngôi nhà này mà phòng ở và văn phòng của nó được quân đội của chúng ta sử dụng. Chúng tôi đã thuê lại căn nhà này từ người Việt, chúng tôi trả tiền cho việc đó. Vâng, chúng tôi có điện riêng vì chúng tôi không thể tin cậy vào người Việt được. Nhưng đường dây điện của chúng tôi chạy qua đồng hồ điện của họ, và vào cuối tháng, người Việt đọc đồng hồ – và chúng tôi phải trả tiền. Chúng tôi phải trả tiền điện cho họ, điện mà chúng tôi sản xuất ra.”
“Làm sao mà có thể như thế được?”
“Người Việt dọa sẽ đuổi người Mỹ ra khỏi nhà, nếu như chúng tôi không chịu. Ngoài ra: Nếu chúng tôi trả tiền mà không lầu bầu và tất cả đều diễn ra tốt đẹp, thì một đại tá hay viên tướng nào đó sẽ được khen ngợi cho việc “quên mình hoàn thành nhiệm vụ và cộng tác” khi thời gian phục vụ ở Việt Nam của ông ấy chấm dứt.
O’Leary chỉ vào một chiếc xe quân đội Mỹ. “Anh có thấy bản số xe ở đấy không? Thế này, chính phủ Hoa Kỳ trả cho người Việt một lệ phí cho việc đăng ký chiếc xe tải mà chúng ta gửi đến đây để tiến hành cuộc chiến của họ. Người Việt từ chối giao ra chiếc xe tải cho tới chừng nào mà lệ phí được trả.”
“Anh hãy tự nhìn đi”, O’Leary tiếp tục, “chính chúng ta yêu cầu người Việt hãy đối xử tệ bạc với mình. Gần như là chúng ta mang trước trán một tấm bảng to: “Tôi là người Mỹ. Xin hãy đối xử tệ bạc với tôi”.”
Trên một ngọn núi, nhiều kilômét bên ngoài Đà Nẵng, Không quân Hoa Kỳ đã lắp đặt thiết bị bí mật có giá trị khoảng 15 triệu dollar.
Nhưng Hoa Kỳ không sở hữu ngọn núi đó, và họ cũng không thuê nó. Để có thể dựng thiết bị của mình ở trên đó, họ cần sự đồng ý của người Việt. Ngọn núi thuộc quyền của một thiếu tá quân đội Viện Nam. Không có sự đồng ý của ông ấy thì Không quân Hoa Kỳ không thể làm gì được trên ngọn núi đó. Bất cứ viên thiếu ta muốn gì: ông ấy thường nhận được điều đó, ngay cả khi nó đi ngược lại lợi ích chiến tranh của Hoa Kỳ.
Vào đầu 1967, Không quân bắt đầu xây một trạm  phát sóng ở gần đỉnh núi. Khi nền móng đã xong, thiếu tá người Việt tìm đến gặp viên chỉ huy của Không quân Hoa Kỳ và giải thích rằng ông ấy trước nay rất muốn có một ngôi nhà nghỉ hè ở trên núi. Điều tình cờ là nền móng bê tông đấy trùng hợp chính xác với ước muốn của ông ấy cho căn nhà, về vị trí, độ lớn và hình dạng.
Viên chỉ huy Không quân Mỹ phản đối. Người Việt đấy cứ khăng khăng đòi nền bê tông đấy phải được dùng cho căn nhà mùa hè của ông ấy. Nếu không, ông ấy sẽ không cho phép Không quân Hoa Kỳ tiếp tục xây thiết bị điện tử của mình ở trên núi.
Viên chỉ huy Không quân Hoa Kỳ xin ý kiến của cấp trên ông ấy ở Đà Nẵng và Sài Gòn. Tổng hành dinh ở Sài Gòn cho ông ấy biết rằng, “từ những lý do chính trị” mà nên cộng tác.
Thế là Không quân Hoa Kỳ xây cho viên thiếu tá ngôi nhà, trang bị cho nó – và nhận người làm để chăm sóc cho ngôi nhà và khu đất.
Viên thiếu tá ra quy định, tất cả các dịch vụ cá nhân cho lính Không quân Mỹ ở trên núi phải do người Việt tiến hành. Phí tổn nhân sự của các đầu bếp, thợ may và thợ cắt tóc cho Không quân Mỹ này cao khoảng gần gấp đôi so với các dịch vụ tương tự trong các căn cứ Hoa Kỳ khác quanh Đà Nẵng. Khi người ta hỏi lý do, các thợ cắt tóc nói không úp mở. “Chúng tôi phải giao lại cho ngài thiếu tá phân nửa tổng thu nhập. Vì thế mà giá cao gấp đôi.”
Không quân Mỹ không thể làm gì để chống lại việc đó được. Họ đã nhận chỉ thị phải nhân nhượng. Mặc cho người Việt muốn gì ở Hiệp Chúng Quốc, Hoa Kỳ đưa cho họ điều đấy. Cuối cùng thì “Chúng ta là khách ở đây”.
Phan Ba dịch từ Der Spiegel số 44/1968: http://www.spiegel.de/spiegel/print/d-45949919.html

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét