Một chiếc hàng không mẫu hạm như là niềm hy vọng
Nhiều người Trung Quốc hầu như không thể chờ chuyến khởi hành đầu tiên được nữa. Trang bị với kính viễn vọng và máy quay phim, họ đi hành hương tới Đại Liên. Chỗ xem tốt nhất là ở các ngôi nhà cao tầng của thành phố cảng trong miền Đông Bắc của Trung Quốc. Lối thoát khẩn cấp trên tầng ba của một ngôi nhà bán đồ gỗ Ikea được lan truyền cho nhau như là lời mách nước bí mật của những kẻ thích nhìn trộm. Vật thể của mọi sự ham muốn này là chiếc hàng không mẫu hạm đầu tiên của Trung Quốc, cái đã được đóng (lại) ở cảng của Đại Liên.
Rồi, vào ngày 10 tháng Tám 2011, cuối cùng cũng xong. Tiếng còi vang lên ba lần trong lúc con tàu rời cảng Đại Liên. Con tàu Thi Lang đi chuyến hải hành đầu tiên năm ngày, rồi trở về Đại Liên, có bắn pháo hoa kèm theo.

Cả nước reo mừng. Cuối cùng cũng có một chiếc hàng không mẫu hạm! Chỉ có một vài quốc gia là có những gã khổng lồ trên biển như vậy, người Mỹ (tới mười một chiếc), người Nga, Anh, Pháp, Brazil, Ấn và Thái. Trung Quốc là thành viên duy nhất của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc mà không có một dự án hàng hải phô trương như vậy. Vì thế mà từ cách nhìn của Trung Quốc thì đó là một sự công bằng, tiến vào giới hãnh diện của những sở hữu chủ hàng không mẫu hạm.
Chiếc Thi Lang (được đặt theo tên của một đô đốc, người trong thế kỷ 17 chỉ huy một hạm đội gồm 300 chiến thuyền và 20.000 quân để xâm chiếm Đài Loan) là một biểu tượng cho sức mạnh quân sự đang tăng lên của nước Cộng hòa Nhân dân.
Chỉ là một biểu tượng? Phương Tây không thống nhất với nhau trong đánh giá của mình.
Đối với những người lúc nào cũng nhìn Trung Quốc như là một mối đe dọa thì chiếc Thi Lang là thêm một bằng chứng nữa cho cung cách xuất hiện hung hăng của người Trung Quốc. Những người khác cố làm giảm tầm quan trọng của sự kiện: Đó chỉ là con cọp giấy, còn không xứng đáng với tên gọi hàng không mẫu hạm nữa là. Gã khổng lồ mà sau này được đặt tên là Liêu Ninh – một tỉnh ở miền Đông Bắc Trung Quốc – không thể nào sánh được với mười một chiếc tàu hàng không mẫu hạm của Mỹ. 65 000 tấn vặt vãnh so với 100.000 tấn của lớp tàu Nimitz của Mỹ. Ngoài ra, một chiếc hàng không mẫu hạm cần một hạm đội hộ tống – tàu tuần phòng, tàu khu trục, tàu ngầm. Và trước hết là họ phải huấn luyện phi công để họ có thể cất cánh từ một hàng không mẫu hạm. Điều đó sẽ cần nhiều năm, các nhà quan sát Phương Tây nghĩ như vậy. Sai lầm lớn: Ngay trong tháng Mười Một 2012, phi công Trung Quốc đã thử nghiệm cất cánh và hạ cánh xuống Liêu Ninh với máy bay chiến đấu J-15.
Rõ ràng là người ta cũng thảo luận về việc trang bị máy bay không người lái cho chiếc mẫu hạm. Con tàu chở máy bay nên trở thành con tàu chở máy bay không người lái. Đó là một câu chuyện mang nhiều tính phỏng đoán, cái mà Lieutenant Commander người Mỹ Wilson VornDick xì ra trong một số phát hành của China Brief. “Đó cũng có thể là một lựa chọn cho Trung Quốc”, sĩ quan hải quân này viết. Ông có thể nghĩ dến một “kịch bản bầy đàn” mà trong đó nhiều chiếc máy bay không người lái đồng thời tỏa ra từ chiếc hàng không mẫu hạm Trung Quốc.
Điều thú vị là trong giới quân đội Trung Quốc người ta cũng tranh cãi với nhau về lý và phi lý của hàng không mẫu hạm. Đó có phải là một vũ khí của ngày hôm qua rồi hay không?, có những người nào đó trong giới quân đội tự hỏi. Có phải là tốt hơn không, khi đầu tư vào vũ khí của ngày mai. Và đó là máy bay không người lái mà hiện nay Trung Quốc đang phát triển nhiều kiểu. Một chiếc hàng không mẫu hạm chở máy bay không người lái có thể là một giải pháp thỏa hiệp hay không?
Chắc chắn là: người Trung Quốc muốn đóng thêm hàng không mẫu hạm nữa, nhưng thực tế: “Để thành lập một nhóm hàng không mẫu hạm, chúng tôi cần ít nhất là mười năm”, đề đốc về hưu Ân Chu [Yin Zhuo] nói.
Tăng cường vũ trang về mặt hải quân của Trung Quốc, cái được ghi nhận một cách hình tượng qua chiếc hàng không mẫu hạm mới, là một nối tiếp lôgíc sức mạnh kinh tế của đất nước. Các quốc gia mạnh về thương mại (và Trung Quốc hiện nay là quốc gia lớn thứ nhì của thế giới sau Hoa Kỳ) luôn là những thế lực hàng hải mạnh. Vì đã và vẫn phải bảo vệ các con tàu thương mại và các tuyến đường của chúng trên các đại dương.
Vì vậy mà với sức mạnh kinh tế ngày càng tăng, Trung Quốc đã bắt đầu tăng cường hải quân của họ. Đất nước này trước hết muốn và phải bảo đảm cho những con tàu chở container và tàu chở dầu của nó có thể cập cảng Trung Quốc an toàn và đi qua eo biển Malacca mà không bị gây trở ngại. Eo biển đó giữa Malasia và Sumatra của Indonesia được xem là tuyến đường biển có nhiều giao thông nhất trên thế giới. Và Trung Quốc hết sức lo sợ, rằng nó có thể bị một trong số những kẻ thù của mình – và trước tiên là họ nghĩ đến Mỹ – đóng kín, điều dẫn đến những hậu quả khủng khiếp. Một sĩ quan của Quân đội Giải phóng Nhân dân nói: “Nếu như tuyến đường Malacca bị đóng chỉ một ngày thôi thì gián đoạn trong cung cấp dầu sẽ gây ra rối loạn trong xã hội ở Trung Quốc.”
Cả một thời gian dài, Quân đội Giải phóng Nhân dân là một thế lực trên đất liền với một đạo quân mạnh có trên hai triệu lính (hiện nay là 1,2 triệu). Trung Quốc, quốc gia có biên giới với 14 nước, phải bảo vệ mình trên đất liền hầu như xuyên suốt qua cả toàn bộ lịch sử của nó. Kẻ thù có ở phía Bắc (trước kia là người Mông Cổ, rồi Xô viết), phía Tây (Ấn Độ) mà ở phía Nam (Việt Nam). Sườn mở là phía Đông, biển.
Nhưng từ một vài năm nay, Trung Quốc đi theo một chính sách của Mahan, được gọi theo Alfred Thayer Mahan. Ông là một sĩ quan hải quân Mỹ và là một sử gia. Trong tác phẩm kinh điển của mình The Influence of Sea Power upon History 1660-1783, Mahn viết rằng chỉ những ai là một thế lực mạnh trên biển thì mới cũng có thể là một quốc gia mạnh.
Với Lưu Hoa Thanh, cha đẻ của hải quân Trung Quốc hiện đại, ông có một người trung thành theo mình. Lưu được gọi là “Mahan của Trung Quốc”, người nhất định muốn trải qua lần rời cảng của chiếc hàng không mẫu hạm đầu tiên của Trung Quốc, nhưng đã qua đời vài tháng trước đó trong tháng Giêng 2011.
Ít ra thì Lưu cũng đã lo liệu sao cho lợi ích của hải quân được quan tâm tới một cách thích đáng. Hiện nay, trong giới quân đội Trung Quốc có một cánh hải quân mạnh. Nhờ vào phe này mà ngày nay hải quân Trung Quốc “có hạm đội tàu chiến, tàu ngầm và xe đổ bộ lớn nhất trong châu Á”, theo bản tường trình thường niên cho Quốc Hội Hoa Kỳ, Military and Security Developments Involving the People’s Republic of China.
Đặc biệt Hạm đội Nam Hải Trung Quốc được tăng cường mạnh. Đây là hạm đội mạnh nhất của ba hạm đội (hai hạm đội kia là Hạm đội Đông Hải và Hạm đội Bắc Hải). Hạm đội này hành quân từ căn cứ Du Lâm nằm gần Nam Á trên đải Hải Nam. Theo thông tin của Sách Trắng Nhật, hạm đội bao gồm 1090 tàu, trong đó là 60 tàu ngầm.
Với một hạm đội có quy mô lớn như vậy, người ta có thể theo đuổi những mục tiêu dài lâu. Vì vậy mà Hải quân trung Quốc đã thay đổi chiến lược nhanh chóng. “Bây giờ chiến lược hải quân của chúng tôi đã thay đổi, chúng tôi thay đổi từ bảo vệ bờ biển sang một Far Sea Defense“, đề đốc Kim Hoa Thần, phó chỉ huy Hạm đội Đông Hải nói.
Chiến thuyền Trung Quốc trong tương lai sẽ hoạt động xa bờ biển nước nhà nhiều hơn. Hiện nay, họ đã hoạt động trong Vịnh Aden, nhưng là để chống hải tặc. Và việc đó rõ ràng là rất thành công và rất cộng tác, các quốc gia khác nói, những quốc gia mà đã cộng tác với họ trước Somalia. Đối với Hải quân Trung Quốc thì hoạt động này là một kinh nghiệm mới và quan trọng. Qua đó, họ học được cách có thể hoạt động cách xa quê hương như thế nào.
Họ ngày một tự tin nhiều hơn và tiếp tục mạo hiểm bước tới. Trong mùa Hè 2012, tàu khu trục và tuần phòng Trung Quốc được nhìn thấy trong Kênh đào Suez. Họ đang trên đường đi vào Biển Đen, để thăm Ukraine, Romania và Bulgaria, sau khi tàu Trung Quốc đã đến Hy Lạp và Ai Cập trước đó. Tờ báo Đảng People’s Daily bình luận kèm theo: “Trung Quốc xem Địa Trung Hải như là một vùng mà hải quân của mình muốn hiện diện ở đó.”
Nhưng không chỉ Hải quân Trung Quốc tăng cường vũ trang, mà cả Không quân nữa.
Trên đường cân bằng vũ khí
Người ta có thể sai lầm như thế đó. Không, người Trung Quốc không thể nào mà nhanh chóng chế tạo được máy báy chiến đấu của cái được gọi là thế hệ thứ năm đâu, các chiến lược gia người Mỹ nghĩ và nói. Ở đó thì với chiếc F-22 của họ, họ đi trước một đoạn xa mà không thể nào dễ dàng thu ngắn khoảng cách lại được nữa. Tới năm 2010, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng trước đây của Hoa Kỳ Robert Gates vẫn còn mạo muội nói rằng Trung Quốc sẽ không có được một chiếc máy bay của thế hệ thứ năm trên không trung trước năm 2020.
Ngay sau đó, một chiếc như vậy bay gần như sát ngang tai của ông. Vì chiếc J-20 bắt đầu chuyến bay đầu tiên khi ông đang thăm viếng Trung Quốc. Một dàn dựng khéo léo. Hiện nay, chiếc J-20 đã có trên 60 chuyến bay thử nghiệm, một chiếc thứ nhì của tổng cộng bốn mẫu thử nghiệm J-20 cũng đã bay rồi.

Điều thú vị là Trung Quốc có khả năng tiến hành điều xa xỉ, phát triển song song tới hai loại máy bay chiến đấu ít và khó bị phát hiện. Trong khi chiếc J-20 được phát triển ở Chengdu Aircraft Corporation dưới quyền của ngôi sao thiết kế Dương Vĩ thì ở tại Shenyang Aircraft Corporation, người ta cũng chế tạo một chiếc chiến đấu cơ tương tự như vậy, chiếc J-31. Ngoài ra, Trung Quốc đã thử nghiệm thành công chiếc máy bay vận tải Y-20 vào cuối tháng Giêng 2013.
Các ví dụ J-20, J-31 và Y-20 cho thấy: quân đội Trung Quốc đã tiến xa nhiều hơn là nhiều người ở Phương Tây nghĩ. Khoảng cách công nghệ cũng như thời gian giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc luôn nhỏ đi.
Tuy Trung Quốc tỏ vẻ bi quan có mục đích. Ví dụ như Tổng tham mưu trưởng Trần Bỉnh Đức nói trong một chuyến thăm Washington, rằng vẫn còn tồn tại một “khoảng cách 20 năm” giữa trang thiết bị quân sự của Trung Quốc và của các quốc gia Phương Tây. Nhưng US Naval War College đã đưa ra một tính toán thời gian riêng và qua đó đã đi đến kết quả: Nếu như người Mỹ còn đi trước 26 năm tại thế hệ thứ tư của máy bay chiến đấu thì tại thế hệ thứ năm chỉ còn 21 năm, ở tàu ngầm nguyên tử 16 năm và bây giờ tại những cái được gọi là spaceplane, một sự pha trộn giữa máy bay và tàu vũ trụ chỉ còn đúng một năm.
Trung Quốc hoạt động đặc biệt tích cực trong phát triển tên lửa mới. Hiện nay, giới quân đội đang phát triển một loại tên lửa chống tên lửa xuyên lục địa, cái khiến cho người Mỹ lo ngại nhiều. Tên của nó: Đông Phong 41 hay DF-41. Nó có nhiều đầu đạn nguyên tử. Chuyên gia cho rằng tên lửa này có thể mang tối đa mười đầu đạn nguyên tử. “32 tên lửa như vậy là đã đủ để bắn trúng tất cả các thành phố Mỹ có trên 50.000 người”, Phillip Karber của Georgetown University đã tính toán.
Tờ PLA Daily xác nhận các tường thuật về những lần thử nghiệm DF-41, những cái được cho là có tầm xa 14.000 kilômét. Một vài lữ đoàn của Đệ nhị Pháo binh đã tiến hành nhiều cuộc thử nghiệm với DF-41 trong mùa Hè 2012. Theo đánh giá của các chuyên gia Mỹ, DF-41 có tính cơ động nhiều hơn là được dự tính trước. Tức là: người ta có thể dấu chúng hầu như ở khắp nơi và qua đó bảo vệ chúng trước một cuộc tấn công.
Cuộc rượt đuổi thành công của Trung Quốc ở tại trang thiết bị quân sự có nhiều nguyên nhân. Về một mặt, ngành công nghiệp vũ trang của Trung Quốc đã cải thiện rất nhiều kể từ cuối những năm 90. Bắt đầu từ lúc đó có một sự cộng tác – do nhà nước ra lệnh – giữa công nghiệp quân sự và dân sự. Hiện nay, họ cùng nhau sản xuất những cái được gọi là sản phẩm dual-use, những cái có thể được sử dụng cả trong dân sự lẫn trong quân sự. Đặc biệt ngành đóng tàu và khu vực điện tử đã hưởng lợi từ sự cộng tác này.
Mặt khác, người Trung Quốc đã học được rất nhiều từ người Nga trong những năm vừa qua, những người trước sau vẫn là nhà cung cấp vũ khí lớn nhất của Trung Quốc. Nhưng vai trò hiện nay đã được đổi ngược lại: “Chúng tôi đã là senior partner trong quan hệ này, bây giờ thì chúng tôi là junior partner”, chuyên gia quân sự Nga Ruslan Pukhov nói với Wall Street Journal. Qua đó, ông muốn nói rằng: Trước đây, người Trung Quốc sao chép người Nga. Ngày nay thì ngược lại, các bản sao Trung Quốc tốt hơn là nguyên bản Nga.
Và – dù nghe có vẻ ngược đời cho tới đâu – cả việc cấm vận vũ khí của Phương Tây, được ban hành sau vụ Thảm sát Thiên An Môn 1989 và cho tới nay vẫn chưa được bãi bỏ, cũng đã giúp người Trung Quốc nhảy vọt. Tướng về hưu Hứa Quang Dụ nói: “Trình độ nghiên cứu quân sự của chúng tôi lẽ ra đã không cao như thế nếu như chúng tôi không bị cấm vận vũ khí.” Và rồi ông còn trở nên mỉa mai: “Chúng tôi cần phải nói cảm ơn Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ.”
Chi tiêu quân sự công khai và ước đoán của Trung Quốc
| Năm | Thông tin chính thức Trung Quốc (tỉ nhân dân tệ) | Theo SIPRI (tỉ nhân dân tệ) | SIPRI (tỉ dollar) | Pentagon (tỉ dollar) |
| 1992 | 37 | 68,9 | 21,9 | |
| 1998 | 93 | 150 | 25,9 | |
| 2004 | 220 | 331 | 55,2 | |
| 2005 | 245 | 379 | 62,1 | -90 |
| 2006 | 284 | 452 | 72,9 | 70-105 |
| 2007 | 351 | 546 | 84,1 | 97-139 |
| 2008 | 418 | 638 | 92,7 | 105-150 |
| 2009 | 473 | 752 | 110,1 | > 150 |
| 2010 | 519 | 808 | 114,3 | > 160 |
| 2011 | 583 |
SIPRI: Stockholm International Peace Research Institute; Nguồn: Schmidt/Heilmann: Chính sách đối ngoại và kinh tế đối ngoại của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, trang 59.
Tại sao Trung Quốc lại tiến hành những cố gắng tốn kém này? Tại sao Trung Quốc lại tăng cường vũ trang?
Đầu tiên – người ta có thể lấy làm đáng tiếc – thì đó là một sự phát triển tất yếu. Mỗi một cường quốc kinh tế đang trỗi dậy trong lịch sử đều tăng cường sức mạnh chính trị và quân sự của nó. Điều này có một khía cạnh thương mại: người ta muốn có khả năng bảo đảm các con đường hàng hải cho thương thuyền của mình. Hiện nay thì Trung Quốc (chưa) không có khả năng. Họ phải dựa vào người Mỹ, những người bảo đảm sự tự do trên các đại dương cho tới nay. Người Trung Quốc không thích sự phụ thuộc vào người Mỹ này.
Và việc tăng cường vũ trang cũng có một khía cạnh về quyền lực chính trị. Qua đó, người Trung Quốc muốn phô diễn: chúng tôi lại là ai đó. Chúng tôi không còn để cho bất kỳ quốc gia nào khác hạ nhục. Chúng tôi có khả năng chống cự lại.
Câu hỏi quyết định là: Người Trung Quốc chỉ muốn có khả năng chống cự lại – hay là họ cũng muốn có khả năng tấn công?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét