Ngoại giao: Tăng cường vũ trang chống giải trừ quân bị
“Đông Á và Đông Nam Á là những khu vực nhạy nhất cho các xung đột quốc tế trong một thế giới hậu Hoa Kỳ.” Zbibniew Brzezinski, cựu cố vấn an ninh Hoa Kỳ.
Châu Á và Thái Bình Dương là trung tâm mới của chính trị thế giới. Ở đây, đương kim vô địch Hoa Kỳ gặp nhau trực tiếp với người thách đấu Trung Quốc, mà trong đó Trung Quốc hoàn toàn không nhìn mình như là một người như vậy. Cả một thời gian dài, Trung Quốc tiến hành một chính sách ngoại giao dè dặt. Peaceful Rising là học thuyết công khai mà ngay cả lối diễn đạt này đối với một vài người trong giới lãnh đạo ở Bắc Kinh cũng còn quá hung hăn. Vì thề mà người ta đã thay thế Peaceful Rising với Peaceful Development.
Kèm theo các câu khẩu hiệu này là những lời trấn an của các chính trị gia lãnh đạo. “Trung Quốc sẽ không bao giờ cố vươn tới quyền bá chủ hay bành trướng bằng quân sự”, ví dụ như Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lương Quang Liệt đã nói trong tháng Sáu 2011 ở Singapore. Và cựu thủ tướng Ôn Gia Bảo còn khẳng định cả trước Liên Hiệp Quốc ở New York trong tháng Chín 2010: “Chúng tôi không chiếm đóng một xăng ti mét vuông của bất cứ một đất nước nào và cũng không khoe khoang sức mạnh quân sự của chúng tôi.”

Thế nhưng những hành động ngoại giao của Trung Quốc trong hai năm vừa qua không thật sự có thể được diễn tả với “sự phát triển hòa bình”. Trung Quốc đã hung hăn hơn, tự tin hơn và – có những người nào đó cũng nói là – kiêu ngạo hơn. Có thể nhận thấy điều đó tại thái độ của người Trung Quốc ở biển Đông, nơi họ bảo vệ lợi ích của họ một cách hết sức cứng rắn. Cũng như ở biển Hoa Đông, nơi họ cãi nhau với Nhật Bản về một nhóm đảo lởm chởm đá không có người sinh sống.
Và Trung Quốc tăng cường vũ trang, việc – nhìn theo lịch sử – thì cũng là chính đáng. Ai mạnh về kinh tế thì cũng muốn mạnh về chính trị và quân sự. Tại sao Trung Quốc lại cần phải là một ngoại lệ của quy luật này?
Vấn đề chỉ là Trung Quốc tăng cường vũ trang ngay trong lúc tình hình ở châu Á đang thay đổi rất nhiều.
Vấn đề là quyền thống trị ở châu Á. Hai cường quốc mới – Trung Quốc và Ấn Độ – bước vào cuộc, một cường quốc cũ – Nhật Bản – vẫn còn muốn tham dự.
Điều là một điều mới: chưa từng bao giờ trong lịch sử mà ba thế lực lớn của châu Á – Trung Quốc, Ấn Độ và Nhật Bản – lại hùng mạnh như nhau. Và rồi bên cạnh ba thế lực Á châu này còn có người Mỹ nữa, những người mà sau chuyến phiêu lưu về quân sự ở Cận Đông lại tự hiểu mình là một thế lực ở Thái Bình Dương nhiểu hơn, sắp xếp lại quân đội của mình và cử một phần hải quân đi sang Thái Bình Dương.
Tất cả những nước này đều có vấn đề với nhau. Ấn Độ và Trung Quốc có những vấn đề về biên giới mà từ 50 năm nay vẫn chưa giải quyết được, sự thù địch giữa Nhật Bản và Trung Quốc còn lâu đời hơn và sâu hơn. Và Trung Quốc và Hoa Kỳ nghi ngờ nhau – mặc cho tất cả các diễn đàn song phương – và tranh giành quyền bá chủ.
Tất cả bốn nước đều có một chương trình nghị sự khác nhau: Trung Quốc muốn một thế giới đa cực nhưng một châu Á đơn cực. Ấn Độ và Nhật Bản cũng muốn một thế giới đa cực, nhưng cũng muốn một châu Á đa cực. Nếu như thêm Hoa Kỳ vào trong đó thì mạng lưới lợi ích lại còn phức tạp hơn: Hoa Kỳ muốn có một thế giới đơn cực, nhưng một châu Á đa cực.
Tức là có đủ mầm mống xung đột trong vùng này. Vì vậy mà tất cả các quốc gia châu Á – không chỉ Trung Quốc – đều tăng cường vũ trang. Hiện nay – Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm tính toán như thế – họ chi tiền cho vũ khí nhiều hơn là người Âu. “Chúng tôi có khả năng làm việc đó”, tổng thống Indonesia Susilo Bambang Yudhoyono nói. Các quốc gia trong vùng hiện đang tăng trưởng về kinh tế, tức là họ có khả năng dùng càng lúc càng nhiều tiền hơn để mua sắm vật liệu chiến tranh. Các nước Đông Nam Á đang lo ngại bị lôi kéo vào trong một cuộc xung đột giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
Thêm vào đó, điều khiến cho tình hình trở nên nguy hiểm như thế là việc ở châu Á không có một cấu trúc an ninh vùng và xuyên quốc gia, cái có thể có tác động làm giảm căng thẳng và trung gian hòa giải. Không có một đối xứng Á châu cho một Hội nghị về An ninh và Hợp tác ở châu Âu (CSCE), và vào thời của cuộc Chiến tranh Lạnh thì ít ra là người ta cũng nói chuyện với nhau.
Ở châu Á thì ngược lại, người ta nói không chân thật. Người Trung Quốc tự phô diễn mình như là một người không muốn bá quyền không hung hăn, trong khi họ lại phát triển những vũ khí để ngăn chận không cho Hoa Kỳ bước vào phía Tây của Thái Bình Dương. Đối lại, người Mỹ bao vây Trung Quốc từ Nhật Bản qua Đông Nam Á cho tới Ấn Độ với một liên kết của các đồng minh và bè bạn, trong khi họ lại ngây thơ tuyên bố rằng đó không phải là một sự bao vây và cũng không phải là nhắm tới Trung Quốc.
Chính sách của sự nghi ngờ lẫn nhau này tạo nên một bầu không khí nguy hiểm trong vùng. Một bầu không khí mà trong đó những sự việc nhỏ có thể có những hậu quả lớn.
Chính sách ngoại giao mới của Trung Quốc
Một câu nói của Đặng Tiểu Bình đặt dấu ấn lên chính sách ngoại giao của Trung Quốc cả một thời gian dài. Vào đầu những năm 90 ông đã nói: “Giữ kín thế mạnh của chúng ta. Dấu thế yếu của chúng ta. Không bao giờ đòi hỏi vai trò lãnh đạo.” Tương ứng với học thuyết này, Trung Quốc tiến hành một chính sách ngoại giao tương đối dè dặt, không gây sự chú ý. Đừng gây khó chịu, cứ hùng mạnh lên trong yên lặng thì hơn.
Hoàn toàn theo ý nghĩa này, Trịnh Tất Kiên, cựu lãnh đạo Đại học Đảng Trung ương ở Bắc Kinh, đã sáng tạo ra khái niệm Peaceful Rising hay Development năm 2004. Trước sau vẫn còn có đại diện cho quan điểm này, ví dụ như cựu Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đường Gia Triền hay tướng Hùng Quang Khải, cựu Phó Tổng Tham mưu của Quân đội Giải phóng Nhân dân. Quan điểm của các ông này và một phần lớn của giới lãnh đạo hiện nay là: Trung Quốc vẫn còn là một nước đang phát triển. Nó trước tiên là phải giải quyết nhiều vấn đề trong nước, trước khi có thể đóng vai trò của một kẻ mạnh trên chính trường thế giới.
Nhưng hiện nay – khi người ta đã mạnh về kinh tế – thì nhiều nhà phân tích và chính khách Trung Quốc cho rằng chính sách này không còn hợp thời nữa. Họ yêu cầu chấm dứt vai trò thụ động của Trung Quốc. Đất nước này phải bước ra khỏi vai trò khán giả. Trung Quốc cần phải tham gia vào cuộc chơi và chính mình phải là một người hoạt động.
Dẫn đầu cho sự xuất hiện tự tin hơn này là Lưu Minh Phục, giáo sư tại Đại học Quốc Phòng của Quân đội Giải phóng Nhân dân. Trong mùa Xuân 2010, ông đã xuất bản một quyển sách với tựa đề Giấc mơ Trung Quốc. Trong đó, ông viết: “Mục tiêu lớn của Trung Quốc trong thế kỷ 21 là trở thành số một trên thế giới, thế lực mạnh nhất.” Lưu và những luận điểm của ông cũng bị tranh cãi. Chúng – theo tất cả những gì mà người ta biết – hẳn là không có đa số, nhưng chúng phản ánh một mơ ước trong nhiều giới rộng lớn của người dân và trí thức.
Ví dụ như Diêm Học Thông, một nhà tư tưởng có nhiều ảnh hưởng tại đại học Thanh Hoa, cũng thuộc vào trong số những người tin rằng “Chúng ta lại là ai đó”: “Nếu muốn lấy lại thể chế là một cường quốc thế giới trong lịch sử thì Trung Quốc cũng phải hành động như là một cường quốc thế giới.” Hay chuyên gia quốc phòng Dương Nghi: “Trung Quốc không còn có thể tự biểu hiện mình nổi bật như vậy lâu hơn được nữa.”
Từ 2009, cả giới lãnh đạo Trung Quốc cũng suy nghĩ về một chính sách đối ngoại tích cực hơn. Phương án của Đặng được diễn giải mới. Hiện nay, Trung Quốc đóng một vai trò quan trọng hơn trên bục sân khấu quốc tế, tại G20, ở IMF, ở Liên Hiệp Quốc và tại các lực lượng gìn giữ hòa bình. Trung Quốc có một vai trò quyết định tại những cuộc trao đổi sáu bên về Bắc Triều Tiên. Và Trung Quốc xây dựng những mối quan hệ tại những vùng thường bị Phương Tây bỏ rơi, trước hết là với các quốc gia châu Phi và châu Mỹ La-tinh.
Trần Tương Dương từ China Institutes of Contemporary International Relations nói đúng: “Đứng trước quyền lực ngày càng nhiều của Trung Quốc, chúng tôi cần có thêm bạn bè. Nếu không thì chúng tôi sẽ có nguy cơ bị cô lập.” Cho tới nay Trung Quốc thật sự là không có nhiều bạn bè. Nước Nga chắc chắn là người bạn thân cận nhất, ngay cả khi nó sẽ không bao giờ đủ để trở thành một đối tác chặt chẽ. Cuộc khủng hoảng Syria, mà trong đó cả hai đứng sát vai với nhau chống lại Phương Tây muốn can thiệp, ít ra thì cũng mang cả hai lại gần nhau hơn.
Tại tất cả những mối quan hệ bạn bè, Trung Quốc cho tới nay trước sau vẫn theo đuổi chính sách không liên minh. Nhưng cả ở đây cũng đã có chuyển động trong thảo luận. Diêm Học Thông yêu cầu: “Trung Quốc phải từ bỏ giáo điều phi liên minh của mình và thay thế nó bằng một mạng lưới liên minh quân sự.”
Quyết định không chỉ ở câu hỏi này là việc ai sẽ thắng thế trong chính sách đối ngoại Trung Quốc. Vì người ta không rõ thật ra thì ai là người quyết định về việc này. Tất nhiên là Bộ Ngoại giao, nhiều người sẽ nói. Nhưng thế giới Trung Quốc không đơn giản như vậy. Nhiều người cũng có quyền cùng quyết định trong chính sách ngoại giao. “Có một âm hưởng khó nghe của các tiếng nói”, Linda Jakobson và Dean Knox viết trong phân tích New Foreign Policy Actors in China của họ.
Bộ Ngoại giao chỉ là một nhân vật, và còn không phải là người quyết định nữa. Điều đó không làm cho chính sách đối ngoại của Trung Quốc trở nên dễ được dự đoán hơn. Quyền lực của Bộ Ngoại giao lại còn giảm đi trong những năm vừa qua nữa. “Họ không làm chính sách, họ thực hiện nó”, Jakobson và Knox viết. Ngược lại, có thêm tầm quan trọng là những nhân vật mới như các tập đoàn nguyên liệu, chính phủ địa phương, cơ quan tài chính, thinktank, truyền thông và netizen, tức là cộng đồng Internet.
Và rồi còn một nhân vật xưa cũ nữa: quân đội. Nhân vật này tham dự ngày càng nhiều hơn vào chính sách ngoại giao, và trong lúc đó đóng một vai trò hung hãn hơn là Bộ Ngoại giao nhã nhặn hơn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét