Cuộc khủng hoảng của các nền dân chủ Phương Tây
“Từ khi thiên niên kỷ mới bắt đầu, có một sự hoài nghi ngày càng tăng lan rộng ra trong khoa học, xuất bản và chính trị: người ta hầu như không còn chờ đợi thành công nào của dân chủ hóa nữa”, Wolfgang Merkel, giám đốc Trung tâm Khoa học về Nghiên cứu Xã hội ở Berlin nói một cách hơi cam chịu.
“Chúng ta có một cuộc khủng hoảng về dân chủ”, tờ New York Times nhận định. Người có quyền tối cao, người dân, mà quyền lực cần phải xuất phát ra từ đó, cảm thấy mình ngày càng bất lực hơn và thường không còn được đại diện bởi những người được bầu lên. Hans Vorländer, giáo sư chính trị ở Dresden nói: “Khoảng cách giữa người dân được đại diện và các chính trị gia đại diện đang tăng lên.”
Chính trị học đã nhận ra được tiếng lầm bầm của người dân đi bầu và đã tạo ra một khái niệm mới cho hệ thống hiện nay: hậu dân chủ. Quyển sách của nhà chính trị học người Anh Colin Crouch cũng có tên như vậy, người qua đó đã khởi sự cho cuộc tranh luận về kỷ nguyên hậu dân chủ. Theo quan điểm của ông, tuy là bầu cử vẫn được tiếp tục tiến hành, thế nhưng nó đã bị “những nhóm cạnh tranh lẫn nhau của các chuyên gia chuyên nghiệp về quan hệ công chúng” làm cho suy tàn trở thành “thuần túy là một màn biểu diễn ồn ào”. Đa số người dân đóng một vai trò thụ động, im lặng, vâng, còn là dửng dưng nữa. Vấn đề cơ bản của hiện tại là giới tinh hoa kinh tế, những người đã nhận lấy quyền lực.
Ở Hoa Kỳ, có những người nào đó đã nói về một chế độ tài phiệt, tức là sự thống trị của tiền bạc. Ngành quản lý tài chính hiện nay đang thống trị chính trị. Một lời cáo buộc không thể dễ dàng bác bỏ khi người ta nhìn đến các đan kết về nhân sự giữa Wall Street và Washington của những năm vừa qua. Hầu như tất cả các Bộ trưởng Bộ Tài chính, những người thật ra là có nhiệm vụ điều chỉnh ngân hàng, đều có một quá khứ ở Wall Street.
Ảnh hưởng của những nhóm lợi ích hùng mạnh không phải lúc nào cũng có thể nhìn thấy rõ như vậy. Nhiều việc diễn ra trong hậu trường, trong văn phòng của những kẻ quan liêu và nghị sĩ, hay trong hậu phòng của những quán ăn được chi trả bằng công tác phí. Những bè nhóm trong sự tranh tối tranh sáng của quyền lực này được người ta gọi là vận động hành lang, cái mà có những người nào đó đã gọi nó là kẻ đào mồ chôn nền dân chủ.
Washington bước đi xa nhất ở đây. Người ta chỉ cần nhìn các bảng tên trên cửa nhà ở K, L hay M Street xung quanh Tòa Nhà Trắng, rồi thì người ta sẽ biết. Có không biết bao nhiêu là công ty, hội liên hiệp và công ty quan hệ công chúng ở đây. Vận động hành lang trong thủ đô của Mỹ hiện nay là ngành lớn thứ ba, sau chính phủ và du lịch.
Một hình thức đặc biệt của vận động hành lang ở Hoa Kỳ là tặng tiền cho tranh cử. Tất cả đều hợp pháp, nhưng về chính trị thì hết sức tai tiếng. Giáo sư luật người Mỹ Lawrence Lessig gọi hình thức đưa tiền cho chính khách này là “tham nhũng mang tính thể chế”, việc hết sức rõ nét ở Hoa Kỳ. Năm 2008, 100 thượng nghị sĩ và 435 hạ nghị sĩ đã thu thập được 1,2 tỉ dollar tiền quyên góp cho tranh cử. Trong lần tranh cửa tổng thống vừa rồi của năm 2012 còn có cả 2,5 tỉ dollar chảy về cho cả hai ứng cử viên Barack Obama và Mitt Romney.
Người dân đi bầu ngày càng ngoảnh mặt đi trước những tình trạng như vậy. Chỉ còn một nửa là đi bầu ở Hoa Kỳ, việc dẫn đến hậu quả là một tổng thống Mỹ tại một kết quả sít sao chỉ có tròn một phần tư cử tri ủng hộ cho mình.
Ở đó, một quá trình phân hủy trong cử tri đã diễn ra lâu nay, cái cũng đã bắt đầu ở châu Âu từ lâu rồi. Người đi bầu nhận thấy rõ, rằng không chỉ họ là bất lực, mà cả những người đại diện do họ bầu ra ở trong các Quốc Hội cũng ngày càng bất lực. Chính trong cuộc khủng hoảng euro đã có thể thấy rõ, rằng những người đại diện cho người dân đã chịu thua sự cưỡng bức của những cái được gọi là tình hình bắt buộc. Và sự cưỡng bức này là do những thể chế khác, không có tính chính danh về mặt dân chủ, đưa ra. “Quốc Hội chỉ còn gật đầu thông qua những gì do hành pháp tuyên bố dưới áp lực của thị trường chứng khoán và của các hãng đánh giá mức độ tín nhiệm”, Herfried Münkler lên án trong một bài tiểu luận trên tờ Spiegel. Người ta còn có thể liệt thêm Ngân hàng Trung ương và Ủy ban châu Âu vào trong các cơ quan dân chủ này, những cơ quan (cùng) quyết định về số phận của người Âu mà không chịu trách nhiệm trước họ.
Cảm giác bất lực này còn được tăng cường qua từ ngữ xấu của bà nữ thủ tướng liên bang [Đức] về việc không có sự lựa chọn khác. Một nền dân chủ sống nhờ vào những sự lựa chọn khác. Người đi bầu muốn và cần phải quyết định chọn lựa giữa A và B. Khi người này không còn có sự chọn lựa và thay vì vậy là những thế lực nặc danh nào đó quyết định, thì điều đó gây nguy hại cho hệ thống của chúng ta. Herfried Münkler: “Cái mà chúng tôi đang quan sát thấy là kết cuộc dần dần của nền dân chủ nghị viện.”
Không ngạc nhiên, khi niềm tin tưởng vào các cơ quan chính trị dần biến mất trước nhận định này – ở châu Âu cũng như ở Hoa kỳ. Theo một thăm dò Gallup từ năm 2011, chưa tới 20 phần trăm người Mỹ tin tưởng vào chính phủ của họ, và chỉ chín phần trăm tin tưởng công việc làm của Quốc Hội. Một phán xét khủng khiếp, nhưng rõ ràng là không kích động hay khiến cho bất cứ một ai trong số những người có trách nhiệm phải suy nghĩ.
Cùng với niềm yêu thích đang giảm xuống cho hệ thống chính trị và các chính khách hoạt động của nó, sự đồng ý với hệ thống kinh tế Tây Phương, chủ nghĩa tư bản, cũng giảm xuống trong Phương Tây. Và điều đó cũng xảy ra chính trong nước mẹ của chủ nghĩa tư bản. Chỉ còn 59 phần trăm người Mỹ cho rằng hệ thống kinh tế thị trường tự do là hình thức kinh tế tốt nhất. 2002 còn là 80 phần trăm.
Kinh tế nhà nước có phục hưng trở lại không?
Nhà nước quay trở lại
Cái năm gở 2008 mang lại một điểm ngoặc. Bất thình lình, ngân hàng và công nghiệp trong Phương Tây cần phải được cứu thoát, để nhiều quốc gia không bị sụp đổ. Và từ ai? – Từ nhà nước. Chính phủ Mỹ buộc phải thu nhận General Motors, chính phủ Đức bước vào Commerzbank [Ngân hàng Thương mại] , chính phủ Anh thì Royal Bank of Scotland, để chỉ kể ra một vài ví dụ về sự giúp đỡ của nhà nước.
Cho tới lúc đó, ảnh hưởng của nhà nước bị coi thường. Bãi bỏ quy định, tự do hóa, tư nhân hóa là những từ ngữ mang tính khẩu hiệu của những năm 90 và những năm mang con số không. Nhà nước gọn nhẹ là lý tưởng mới, cái mà tất cả những người có trách nhiệm về chính trị trong Phương Tây đều coi như là đúng – cả các đảng xã hội-dân chủ. Nhưng những nhà hoạt động trong kinh tế đã lợi dụng một cách thái quá sự tự do mà chính trị đưa cho họ. Kết quả thì đã biết rồi: Một cuộc khủng hoảng tài chính mà nguồn gốc của nó – và cần phải nhấn mạnh một lần nữa một cách thật rõ ràng – nằm ở Phương Tây.
Kết cấu lý thuyết Tây Phương lung lay. Có hai nhận thức được phần lớn những người đang cầm quyền ở Phương Tây – ngoài những người thuộc phái Tự Do vẫn ngoan cố bám chặt lấy mô hình Laissez Faire của họ – rút ra từ cuộc khủng hoảng: Quá nhiều tự do hẳn không phải là việc đúng. Và nhà nước không có hại tới như thế cho hoạt động kinh tế. Và vì vậy mà thời gian sau này người ta hành quân đi theo hướng ngược lại. Tờ báo kinh tế Anh The Economist khẳng định: “Chủ nghĩa tư bản nhà nước ngày càng trở thành xu hướng sắp tới.” Cả nhà tư vấn người Mỹ Ian Bremmer, tác giả của quyển sách The End of the Free Market cũng nhìn chủ nghĩa tư bản nhà nước đang đi trên con đường chiến thắng.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước nói chung là gì? Ở trong nó có một nhà nước thống trị, can thiệp mang tính điều khiển vào trong hoạt động kinh tế. Nhà nước này tiến hành chính sách công nghiệp tích cực, bằng cách hỗ trợ nhiều cho các công nghệ hướng tới tương lai. Ví dụ như nhà nước tạo nên những nhà vô địch quốc gia, tức là những doanh nghiệp mạnh, thống trị trị trường trong nước, nhưng do có độ lớn mà có thể đứng vững trên các thị trường quốc tế. Cũng có công ty tư nhân, nhưng những ngành công nghiệp chiến lược như ngân hàng, năng lượng, viễn thông và giao thông đều thuộc sở hữu nhà nước. Ngoài ra còn có những mối liên kết chặt chẽ giữa giai cấp chính khách thống trị và sếp của các công ty.
Trung Quốc là một hệ thống tư bản chủ nghĩa nhà nước đặc trưng. Đứng trước các thành công của mô hình tư bản chủ nghĩa nhà nước Trung Quốc, ngày càng có nhiều người đang hoài nghi trong Phương Tây tự hỏi rằng liệu luận điểm về nền kinh tế không có nhà nước có còn đứng vững nữa hay không. Chúng ta có thể đứng khoanh tay nhìn nhà nước Trung Quốc rót bạc tỉ vào những ngành công nghiệp mới như năng lượng tái sinh và di động sử dụng năng lượng điện, nhưng chúng ta thì lý luận theo kinh tế thị trường một cách chính đáng rằng một sự can thiệp như thế của nhà nước là không nên?
Chúng ta có sự lựa chọn: hoặc là chúng ta cứ tiếp tục đi khắp nơi với ngón tay giơ lên giảng dạy về luân lý và chết trong sự vô tội về ý thức hệ, hay là chúng ta cố ngang bằng với Trung Quốc, điều đồng nghĩa với một sự tham gia nhiều hơn nữa của nhà nước vào trong chính sách nghiên cứu và kinh tế.
Ít ra thì trong Phương Tây cũng có một thảo luận mới về chính sách công nghiệp. Nó sôi nổi hơn trong châu Âu, nơi theo truyền thống có khuynh hướng can thiệp nhiều hơn là ở Hoa Kỳ. Ở đó, từ Industrial Policy trước sau vẫn còn không được phép nói ra, Jeff Immelt, sếp tập đoàn General Electric, nói: “Ngày nay, chỉ cần anh thì thào cái từ chính sách công nghiệp ở Washington thôi thì anh có thể chắc chắn rằng anh sẽ bị ném đá cho tới chết trong vòng 24 giờ đồng hồ.”
Người Mỹ đã tự ban hành cho mình sự kiêng cử nhà nước. Rob Atkinson, sếp của The Information Technology & Innovation Foundation (ITIF), nói: “Khác biệt giữa Mỹ và những nhà cạnh tranh với nó là tất cả họ đều làm việc chung với chính phủ.” Ở Hoa Kỳ thì ngược lại, chính phủ và bộ máy của nó giống kẻ thù của người dân nhiều hơn – ít nhất thì người Cộng hòa nghĩ như vậy. Càng ít nhà nước thì càng tốt cho đất nước.
Có lẽ những người suy nghĩ như vậy nên lật lại sách Sử và giở ra ở đó những trang về các năm 1957 và 1958. Thời đó, Hoa Kỳ cũng đã ở trong một tình trạng khó khăn. Người Nga đã phóng vệ tinh Sputnik của họ vào vũ trụ trong tháng Mười 1957. Toàn nước Mỹ bị sốc: Người Xô viết làm sao mà có thể qua mặt chúng ta được?
Tổng thống lúc đó Dwight Eisenhower, một người Cộng hòa ôn hòa, phản ứng ngay lập tức. Trong tháng Hai 1958, ông thành lập Advanced Research Projects Agency (ARPA), một cơ quan thuộc Lầu Năm Góc có nhiệm vụ phối hợp các dự án nghiên cứu giữa kinh tế, khoa học và nhà nước.
Người ta không thể gọi công việc làm đó là không có thành công. Vì xuất phát từ ARPA là những phát minh như chuột máy tính, GPS, công nghệ tàng hình – và đặc biệt là Internet.
Chính sự phối hợp – hiện nay bị lãng quên ở Hoa Kỳ – giữa nhà nước và kinh tế này là cơ sở của mô hình Trung Quốc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét