Thứ Năm, 17 tháng 11, 2016

CHIẾN TRANH LẠNH phần 12

Trung Quốc và Ấn Độ – không chỉ dãy Himalaya chia cắt họ

Một tuần tập trung trao đổi ý kiến ở Delhi thủ đô của Ấn Độ có thể có tác động gây bối rối rất nhiều, đặc biệt là về đề tài: Ấn Độ cần phải đối xử như thế nào với người láng giềng ngày một hùng cường hơn ở bên kia của dãy Himalaya?
Người ta nghe được đủ mọi ý kiến đang lưu hành trong các thinktank và cơ quan nhà nước. Có ý kiến tuy nhìn Trung Quốc là một mối đe dọa về lâu dài, nhưng cho rằng người ta có thể phản công bằng cách chính mình vươn lên trở thành cường quốc. Rồi có những ý kiến khác, không tin vào khả năng phản công này và vì vậy ủng hộ liên kết đồng minh, để đặt giới hạn cho Trung Quốc ngày một hùng cường hơn. Và ở đó có những người có ý tốt, nhìn Trung Quốc như là một láng giềng thân thiện, không có ý xấu.
Trong giới quân sự, người ta phác họa kịch bản đe dọa nhiều hơn, trong kinh tế người ta thích đi theo hướng ôm ấp hơn (nhất là các quan hệ thương mại lại đang phát triển rất tốt) và trong chính trị thì người ta có thể nghe được tất cả các ý kiến về Trung Quốc. Ví dụ như thủ tướng Manmohan Singh đi theo một đường lối tương đối ôn hòa, trong khi các bộ trưởng Bộ Ngoại giao và Quốc phòng thì đã có lần làm ầm lên và dùng những từ ngữ cứng rắn hơn.
Stephen Cohen, chuyên gia Ấn Độ tại Brookings, nói: “Chính trị Ấn Độ không có chiến lược.” Chính trị gia Ấn Độ không có khả năng quyết định họ cần phải đối phó với Trung Quốc như thế nào. Ấn Độ không có một chính sách ngoại giao và an ninh nhất quán.
Trước đây thì khác. Dưới thời Gandhi và Nehru, Ấn Độ rõ ràng là người dẫn đầu của các nước không liên kết. Trong phong trào này của Thế giới thứ Ba, các vai trò được phân chia một cách rõ ràng: Liên bang Xô viết chống đế quốc là bạn, Hoa Kỳ đế quốc là thù. Sau khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt, việc cũng chấm dứt sự tạo khối liên minh, Ấn Độ đã mất định hướng vào lúc ban đầu. Quay đến với ai? Họ quyết định chọn Phương Tây, cuối cùng thì họ cũng là một nền dân chủ.
Tiếp theo sau đó, người ta tiếp cận Hoa Kỳ một cách dè dặt. Các tổng thống của nó, Bill Clinton và George Bush – sau một thời gian bối rối ngắn do Ấn Độ thử bom nguyên tử – đã thay đổi hình ảnh Ấn Độ của họ và đáp trả tình cảm của Ấn Độ. Sự tiếp cận này lên tới đỉnh cao trong chuyến đi thăm Ấn Độ lịch sử của Clinton năm 2000, nơi ông đọc một bài diễn văn mang tính chỉ ra đường lối trước Quốc Hội Ấn Độ vào ngày 22 tháng Ba: “Sau 50 năm bỏ lỡ cơ hội, bây giờ là lúc Mỹ và Ấn trở thành những người bạn tốt hơn và đối tác mạnh hơn.” Nguyên thủ tướng Ấn Độ Atal Bihari Vajpayee tuyên bố cùng lúc đó, rằng Hoa Kỳ và Ấn Độ là “các đồng minh tự nhiên”.
Ý định của Hoa Kỳ thật rõ ràng, ngay cả khi họ không biểu lộ nó rõ như vậy: Họ muốn đặt Ấn Độ làm đối trọng với Trung Quốc. Nhưng Ấn Độ không muốn đóng vai trò này. Họ không muốn là một con cờ trên bàn cờ chiến lược của người Mỹ. Người Ấn Độ quá tự hào và quá tự tin cho việc đó.
Thay vì vậy, Ấn Độ lại cố gắng tiến hành một hoạt động cân bằng khó khăn. “Họ muốn có cùng một khoảng cách với Trung Quốc và Hoa Kỳ”, Edward Luce viết trong quyển In Spite of the Gods của ông. Nhưng chính sách cùng khoảng cách này dường như không thành công. Vì về một mặt họ nhích tới gần – nhưng không quá gần – người Mỹ hơn nhưng ở mặt kia thì khoảng cách với Trung Quốc ngày một lớn hơn.
Sự nghi ngờ Trung Quốc quá lớn, đặc biệt là trong giới tinh hoa Ấn Độ. Và nhiều người Ấn Độ vẫn còn bị chấn thương từ cuộc chiến với Trung Quốc trong mùa Thu 1962, cuộc chiến mà người Ấn Độ đã bị bại trận sau một trận chiến ngắn, dữ dội. Thời đó là vì biên giới giữa hai nước ở Himalaya.
Và câu hỏi biên giới này cho tới ngày nay vẫn còn chưa được giải quyết. Biên giới giữa hai quốc gia dài không thể tưởng tượng được, 4057 kilômét. Đó là biên giới dài nhất của thế giới mà đường đi của nó vẫn chưa được làm rõ. Cho tới chừng nào còn như vậy thì người ta vẫn tăng cường vũ trang đầy nguy hiểm ở bên này và ở bên kia của biên giới chưa được định rõ.
Trong vòng năm năm tới đây, Ấn Độ muốn chuyển 90.000 người lính tới biên giới và lập bốn sư đoàn mới ở đó. Cho tới 2030, người Ấn còn muốn xây 558 con đường chiến lược tới biên giới có tranh chấp. Người ta không hề ngại tốn kém để làm việc đó. Chính phủ Ấn Độ chi mười tỉ dollar cho công cuộc xây dựng đường sá về hướng Bắc này.
Qua đó, Ấn Độ chỉ muốn phản ứng lại những hoạt động của Trung Quốc ở bên kia biên giới, người Ấn lý luận. Đặc biệt chính sách quân đội hóa Tây Tạng của Trung Quốc khiến cho Ấn Độ lo ngại. Theo đó, dự định tuyến đường sắt Bắc Kinh-Lhasa sẽ được kéo dài tới  Yadong và Nyingchi trong miền Nam của Tây Tạng. Đã được bắt đầu xây – dưới những điều kiện cực kỳ khó khăn – là một con đường tới Metok County.
Metok có biên giới với bang Arunachal Pradesh của Ấn Độ. Trung Quốc tất nhiên là đòi hỏi chủ quyền cho vùng đất này. Từ 2006, Trung Quốc gọi bang Ấn Độ này là Nam Tây Tạng và ngày một hung hãn hơn, khi vấn đề là bảo vệ những cái được gọi là lợi ích của họ ở trong vùng này. Như Trung Quốc phản đối, khi thủ tướng Ấn Độ đến thăm bang Arunachal Pradesh. Và Trung Quốc đã ngăn chận không cho bang này nhận tiền từ Asian Development Bank.
Dường như một thành ngữ Trung Quốc đã nói đúng cho Himalaya: Nhất sơn bất dung nhị hổ.
Vì mỗi bên đều muốn bảo vệ vùng đất của mình nên Ấn Độ cũng tăng cường vũ trang như Trung Quốc. Ngân sách vũ trang Ấn Độ tăng trong khoảng thời gian 2000 tới 2009 từ mười hai lên ba mươi tỉ Dollar. Mặc dù vậy, khoảng cách quân sự giữa Trung Quốc và Ấn Độ vẫn tăng lên. Những người phê phán nói rằng tiền chảy quá nhiều vào lương thay vì vào những hệ thống vũ khí mới. Ngoài ra thì lục quân mang tính áp đảo, nuốt trọn phân nửa ngân sách quân sự. Phải đầu tư nhiều hơn vào hải quân và không quân. Trong đó thì hải quân vẫn còn được tốt hơn là không quân. Ít ra thì Ấn Độ với chiếc Vikramaditya (trước kia là Admiral Gorschkow) vẫn sở hữu một chiếc tàu hàng không mẫu hạm có khả năng hoạt động, do Liên bang Xô viết sản xuất.
Có một cuộc cạnh tranh dữ dội giữa ba binh chủng lục, hải và không quân. Còn không có cả một sự tích hợp nghiêm chỉnh các kế hoạch của ba binh chủng. Trong một bức thư gửi Thủ tướng Manmohan Singh, cựu tham mưu trưởng Tướng V.K. Singh đã nói rõ: Ấn Độ chưa chuẩn bị đầy đủ cho một quyển lực quân sự đang tăng lên của một Trung Quốc hung hãn hơn.
Tất nhiên: người Ấn không đứng hoàn toàn bất lực ở đó. Trong tháng Tư 2012, Ấn Độ bắn chiếc tên lửa tầm xa đầu tiên Agni V của họ. Tầm hoạt động tối đa của nó: trên 5000 kilômét. Với nó, họ có thể đạt tới Bắc Kinh hay Thượng Hải. Giới truyền thông reo mừng của Ấn Độ vì vậy mà đã gọi tên lửa này ngay lập tức là “China-Killer”.
Ấn Độ và Trung Quốc đã bước vào một cuộc chạy đua vũ trang nguy hiểm. Nó có thể chấm dứt trong một xung đột hiện hữu. Hoặc là ở Himalaya – hoặc là ở Ấn Độ Dương.

Chuỗi ngọc trong Ấn Độ Dương

Gwadar nằm ở góc phía Đông của Pakistan. Một thành phố cảng có 50.000 dân, bị cát bao bọc. Một nơi chốn khô cằn nhiều hơn. Thế nhưng người ta nên ghi nhớ tên của thành phố trong sa mạc này. Nó có thể nổi tiếng giống những nơi là sân khấu của lịch sử thế giới như Carthago, Samarkand hay Angkor Wat.
Thế nào đi nữa thì nhà báo và chuyên gia quân sự Mỹ Robert Kaplan cũng tiên đoán như vậy. Ông đã ở Gwadar, điều không đơn giản và còn là nguy hiểm nữa. Ông nhìn thấy người ta xây một cảng biển nước sâu khổng lồ ở đó. Ông nhìn thấy nhiều khu công nghiệp, một cảng hàng không và nhiều tuyến đường tàu hỏa hình thành sau những hàng rào kẽm gai.
Cảng Gwadar do người Trung Quốc điều hành
Cảng Gwadar do người Trung Quốc điều hành
“Gwadar sẽ trở thành một trung tâm sống động của một Con đường Tơ Lụa mới”, Kapplan viết trong quyển sách Monsoon của ông. Và ai ngồi ở ngay trung tâm của thời đại? Người Trung Quốc. Ngay từ năm 2000, tổng thống Pakistan thời đó Pervez Musharraf đã mời người Trung Quốc xây một cảng biển nước sâu ở Gwadar. Trung Quốc rất thích nhận lời và đã cho 200 triệu dollar để xây mở rộng cảng.
Sau đó, người ta cho PSA International, một doanh nghiệp Singapore, thuê cảng này trong vòng 40 năm. Nhưng hiện nay thì người ta cho rằng chính phủ Pakistan đã mời một doanh nghiệp Trung Quốc (China Overseas Post Holdings) thay PSA làm người điều hành cho cảng của Gwadar.
Gwadar là một khởi điểm quan trọng cho người Trung Quốc. Từ đây họ đào đất xây một tuyến đường sắt và đường bộ đi về hướng Bắc Pakistan. Đích đến là Karakorum Highway, nối liền Pakistan và Trung Quốc.
Nếu người Trung Quốc thành công với kết nối xuyên qua sa mạc và núi đồi này, đòi hỏi hết sức cao về công nghệ, thì đó là một thành công chiến lược rất lớn cho Trung Quốc. Một phần của dầu nhập khẩu từ Cận Đông không cần phải đi trên con đường xa xôi qua Đông Nam Á và qua Eo biển Malakka nguy hiểm nữa, mà có thể đi đường bộ trực tiếp qua Gwadar về Trung Quốc.
Như thế, Gwadar có một vị trí chiến lược hết sức quan trọng đối với Trung Quốc. Nó nằm ở lối ra của Eo biển Hormuz, cái cổ chai mà nhiều con tàu chở dầu phải đi qua đó. Và Gwadar là một trong số những cảng quan trọng nhất ở Ấn Độ Dương, đại dương sẽ trở thành một trong những sân khấu chính của chính trị thế giới trong những thập niên tới đây.
Ấn Độ Dương là biển có giao thông nhiều nhất thế giới. Tàu chở dầu từ Cận Đông đi qua đại dương này cũng như tàu chở container từ châu Âu, châu Á và ngày càng nhiều hơn từ châu Phi đang bùng nổ kinh tế. Không phải bỗng dưng mà chính ở trên biển này, hải tặc lại trải qua thời kỳ phục hưng không lấy gì làm vẻ vang cho lắm của nó. Vì vậy, để bảo vệ các đội tàu thương mại, ngày càng có nhiều tàu chiến từ châu Mỹ, châu Á và châu Âu đi lại ở Ấn Độ Dương. “Ấn Độ Dương sẽ trở thành một sân khấu chính của xung đột và cạnh tranh”, Kaplan nói.
Tất nhiên là người Mỹ có mặt khắp nơi cũng tham gia ở đây. Cứ điểm quan trọng nhất của họ là hòn đảo Diego Garcia giữa Ấn Độ Dương. Nó thuộc người Anh, nhưng họ đã cho người Mỹ thuê, và những người này sử dụng hòn đảo như là cứ điểm quân sự chính.
Thế nhưng hai đối thủ quan trọng nhất thì lại sẽ là hai cường quốc châu Á Trung Quốc và Ấn Độ. Người Ấn xem Ấn Độ Dương – nomen est omen [tên là dấu chỉ] – là mare nostrum [biển của chúng tôi] và tương ứng với đó xem người Trung Quốc như là những người xâm nhập vào.
Trung Quốc đã khéo léo tạo vị trí cho mình ở vùng này trong những năm vừa qua. Họ đã nắm lấy hết cảng này tới cảng khác. Từ Gwadar ở phía Đông qua Hambantota (Sri Lanka), Chittagong (Bangladesh) cho tới Coco Islands và đảo Ramree thuộc Myanmar. Người Trung Quốc chi trả để xây mới Hambantota trên Sri Lanka (Trung Quốc hiện nay là nhà chi tiền lớn nhất của hòn đảo), cũng như xây mở rộng cảng Chittagong tại Bangladesh.
Các tiền đồn của Trung Quốc
Các tiền đồn của Trung Quốc
Vì những cảng này nằm nối nhau giống như một chuỗi ngọc nên hoạt động của Trung Quốc cũng còn được gọi là “Chiến lược Chuỗi Ngọc”. Người Ấn có một từ xấu hơn cho việc đó: bao vây. Gurmeet Kanwal, cựu giám đốc của Centre for Land Warfare Studies (CLAWS) in Delhi, nói như vậy: “Trung Quốc tiến hành một chính sách ma quỷ, với mục đích bao vây Ấn Độ.”
Vì không chỉ là những cảng châu Á láng giềng này, nơi những người Trung Quốc đang hoạt động, mà cả những cảng châu Phi quan trọng ở Ấn Độ Dương nữa. Có là Lamu ở Kenia, Daressalam ở Tansania hay Beira ở Mozambique đi nữa – người Trung Quốc đã có ở đó rồi.
Nhưng cả trên những hòn đảo du lịch ở Ấn Độ Dương – Maledives và Seychelles cũng như Mauritius – cũng đã có người Trung Quốc rồi. Trên Maledives, Trung Quốc mở một sứ quán, nước duy nhất bên cạnh các quốc gia Nam Á Ấn Độ, Sri Lanka, Pakistan và Bangladesh. Ngô Bang Quốc, người thứ ba trong nhà nước của Trung Quốc, thăm thù đô Male ba ngày.
Ấn Độ có thể bực tức về sự bao vây của Trung Quốc trong mare nostrum của họ, nhưng cũng phải chịu đựng lời cáo buộc rằng đã quan tâm quá ít tới các láng giềng của mình. Ấn Độ xung đột liên tục với Pakistan. Với Bangladesh và Sri Lanka thì các quan hệ, chúng ta cứ nói vậy, có khả năng tốt hơn.
Cũng như với láng giềng phía Đông Myanmar. Cả một thời gian dài, Burma trước đây chỉ có một người bạn: Trung Quốc. Người Trung Quốc đã bơm gần 40 tỉ dollar vào đất nước này trong các thập niên vừa qua, trước hết là để xây ống dẫn dầu, đường xá và đường tàu hỏa từ Ấn Độ Dương về Trung Quốc. Họ cũng không hề quan tâm tới lệnh cấm vận của Phương Tây.
Vào lúc ban đầu, Ấn Độ cũng tham gia vào trong lệnh cấm vận này. Thế nhưng khi người Ấn nhìn thấy người Trung Quốc ngày càng vững chân hơn ở Myanmar, nước mà theo truyền thống Ấn Độ có những mối quan hệ tốt và hết sức lâu đời, Ấn Độ đã bước ra khỏi mặt trận cấm vận của Phương Tây trong năm 2001. Và khi chính phủ Myanmar bắt đầu với những cuộc cải cách, thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh đã sang thăm Myanmar láng giềng trong tháng Năm 2012, sếp chính phủ đầu tiên của Ấn Độ sau 25 năm.
Thế nhưng Ấn Độ đến với Myanmar cũng tương đối muộn – cũng như trong toàn bộ vùng Đông Nam Á. Tuy là người Ấn Độ từ đầu những năm 90 có một chính sách Look East mà với nó họ muốn đương đầu với người Trung Quốc, nhưng cho tới nay thì họ không có nhiều thành công cho lắm: Trung Quốc chiếm ưu thế ở Đông Nam Á – ít nhất là về kinh tế.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét