Thứ Năm, 17 tháng 11, 2016

CHIẾN TRANH LẠNH - phần 11

Biển Đông trước cơn bão

Đầu mùa Hè 2012, nhiều người Việt Nam phẫn nộ đã tụ tập trước sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội nhiều chủ nhật liên tiếp nhau, hát những bài ca yêu nước và hô to: “Hoàng Sa Trường Sa là của Việt Nam!” Và: “Đả đảo Trung Quốc xâm lược!”
Biểu tình chống Trung Quốc tại Hà Nội
Gần như đồng thời, người Philippines giận dữ cũng xuống đường ở thủ đô Philippines và cũng gọi to không kém phần dữ dội: “Người Trung Quốc cút đi!”
Người Việt cũng như người Philippines biểu tình chống lại tàu đánh cá và tàu quân sự Trung Quốc xâm nhập vào vùng được xem là thuộc chủ quyền của họ. Người Philippines phản đối, vì người Trung Quốc hiện diện quanh rạn san hô Scarborough, người Việt, vì tàu Trung Quốc xuất hiện trước Hoàng Sa.
Luôn có va chạm mà tần suất của chúng đã tăng lên trong những năm vừa qua. Trước hết là giữa Trung Quốc với Philippines, và còn thường xuyên hơn là giữa Trung Quốc với Việt Nam. Đó là một sự khiêu khích qua lại mà không còn có thể nói là ai đã khiêu khích ai trước tiên.
Như Quốc Hội Việt Nam đã thông qua một đạo luật vào ngày 21 tháng 6 2012 mà theo đó, Hoàng Sa và Trường Sa nằm trong lãnh thổ của Việt Nam và tuân theo luật lệ của Việt Nam.
Ngược lại, Trung Quốc chào mời quyền thăm dò cho các công ty khai thác dầu Trung Quốc và nước ngoài trong những vùng trước bờ biển Việt Nam, những vùng mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền và đã giao giấy phép khai thác cho Exxon Mobil và Gazprom.
Các chiến tuyến đã trở nên cực kỳ cứng rắn. Cả hai bên đều thể hiện ít cho tới không sẵn sàng thỏa hiệp. Người ta chỉ có thể phỏng đoán những ý định cuối cùng của Trung Quốc. Câu hỏi lớn chưa được trả lời vẫn còn đó: Biển Đông có phải là một lợi ích cốt lõi của người Trung Quốc hay không? Nếu có, thì nó có cùng tầm quan trọng như ba lợi ích cốt lõi khác của người Trung Quốc, Đài Loan, Tây Tạng và Tân Cương, hay không? Các lợi ích này – giới lãnh đạo ở Bắc Kinh không để cho một hoài nghi nào xuất hiện – được bảo vệ với tất cả sức mạnh. Tức nếu biển Đông là lợi ích cốt lõi thì người Trung Quốc có dùng quân đội để đạt tới những yêu cầu của họ không?
Vì vậy mà người ta đã hết sức bất an, khi hai nhân viên cao cấp của Hoa Kỳ James Steinberg và Jeffrey Bader tuyên bố, khái niệm lợi ích cốt lõi đã được nhắc tới từ phía Trung Quốc trong một cuộc trao đổi với họ trong tháng Ba 2010 ở Bắc Kinh. Các chuyên gia và chính khách Phương Tây thảo luận hàng tuần liền, liệu ngưởi Trung Quốc có nói như vậy hay không. Chính người Trung Quốc thì lại đóng góp rất ít để làm sáng tỏ vấn đề này.
Rõ ràng là chính người trung Quốc cũng không rõ họ muốn đi theo đường lối nào ở biển Đông. Có quá nhiều nhân vật với những mục tiêu hết sức khác nhau cùng tham gia vào trong câu hỏi này. Một cuộc khảo sát của International Crisis Group (Stirring Up the South China Sea) nhận ra không ít hơn là mười một nhân vật, trong số đó quan trọng nhất là Hải quân, Bộ Ngoại giao, các chính phủ địa phương, Bureau of Fisheries Administration và China Marine Surveillance (CMS). Nhân vật cuối cùng là một đơn vị bán quân đội, tuần tra trong các vùng biển Trung Quốc. Hạm đội của họ dự định sẽ được tăng cường lên 20 tàu và 15.000 người.
Vì tất cả – không chỉ người Trung Quốc – chung quanh biển Đông đều tăng cường vũ trang và vì tất cả đều tương đối cương quyết giữ vững quan điểm của mình nên nguy cơ xung đột quân sự đang tăng lên. Điều này còn được cổ vũ bởi tiếng nói của người dân. Khi cổng Internet huanqiu.com tiến hành một cuộc khảo sát trong số 23.000 người Trung Quốc vào tháng Sáu 2011 và hỏi: Chính phủ ở Bắc Kinh cần phải giải quyết các vấn đề ở biển Đông như thế nào? thì 80% trả lời ngắn gọn: với bạo lực.
Tuy vậy, Ian Storey của International Institite for Strategic Studies (IISS) không tin vào giải pháp xấu nhất của tất cả các giải pháp: “Trung Quốc không muốn giải quyết các cuộc tranh chấp ở biển Đông bằng vũ lực.” Nhưng ông cũng nhìn thấy mối nguy hiểm, rằng một cuộc va chạm không có chủ ý trên biển sẽ leo thang và có thể dẫn tới một cuộc khủng hoảng quân sự và ngoại giao lớn. Storey: “Chỉ là một câu hỏi về thời gian, cho tới khi một trong những tình huống như vậy leo thang tới mức tương đối không dễ chịu và có người bị giết chết.”
Vì vậy mà lại càng quan trọng hơn là việc các đối thủ gặp nhau để trao đổi, làm sao để tránh được một sự leo thang như vậy. Nhưng cả ở đó cũng có một cuộc tranh cãi về cơ bản, phải giải quyết các xung đột đó ở bàn thương lượng như thế nào. Người Mỹ kêu gọi đối thoại đa phương, người Trung Quốc muốn giải quyết song phương. Từng tranh cãi một, từng nước một. Robert Kaplan: “Qua giải pháp song phương cho các xung đột, Trung Quốc có thể đi theo chiến lược chia để trị.”
Có một điều mà Trung Quốc đã thành công: liên minh các quốc gia ASEAN đã bị chia rẽ. Hai cực đối chọi nhau là một Campuchia theo Trung Quốc và một Philippines rõ ràng theo Mỹ. Với một ít hạn chế, người ta còn có thể xếp Lào và Thái Lan vào phe Trung Quốc trong câu lạc bộ mười nước này.
Có thể nhìn thấy rõ sự chia rẽ này vào lúc cuối của hội nghị thượng đỉnh ASEAN trong tháng Bảy 2012 tại Phnom Penh thủ đô của Campuchia. Mười ngoại trưởng đã không thể thống nhất với nhau về một thông cáo chung – lần đầu tiên từ 45 năm nay! Đó là về câu hỏi người ta giải quyết vấn đề song hay đa phương. Chủ nhà Campuchia ủng hộ quan điểm Trung Quốc và cản trở một nghị quyết chung.
Campuchia là một người bạn cô đơn của Trung Quốc trong một châu Á mà Trung Quốc có nhiều kẻ thù ở trong đó.

Senkaku hay Điếu Ngư – Núi đá trong sóng cồn

Năm hòn đảo nhỏ đó hoàn toàn không có gì quyến rũ. Những ngọn núi đá lởm chởm nhô lên từ biển. Chỉ một vài con cừu đang ăn cỏ trên những bãi cỏ ít ỏi. Một vùng hoang vắng, cách Trung Quốc và Nhật Bản hàng trăm kilômét, tít ngoài xa trên biển Hoa Đông. Người ta không muốn sống và cũng không muốn được mai táng ở đây.
Mặc dù vậy, những hòn đảo không người này là một nguồn xung đột có lực nổ lớn giữa hai thế lực châu Á Trung Quốc và Nhật Bản. Không phải các hòn đảo là quan trọng đối với họ, mà là những gì ở xung quanh đó. Người ta đoán có nhiều khí đốt và dầu ở trong vùng biển này.
Các hòn đảo Senkaku, Diaoyu vàTiaoyu. Hình: Wikipedia
Các hòn đảo Senkaku, Diaoyu vàTiaoyu. Hình: Wikipedia
Cả hai quốc gia đều tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo này, những cái mà người Nhật gọi là Senkakuz và người Trung Quốc gọi là Điếu Ngư. Và trong đó, cả hai đều đứng trên những vị trí không thỏa hiệp hết sức cứng rắn.
Nhật Bản tuyên bố chính thức: “Không còn nghi ngờ gì nữa, quần đảo Senkaku rõ ràng là lãnh thổ cố hữu của Nhật Bản trước những sự thật lịch sử và dựa trên luật lệ quốc tế.” Theo Bộ Ngoại giao Nhật trong một tuyên bố của ngày 25 tháng Chín năm 2010.
Quan điểm của Trung Quốc cũng không kém phần rõ rệt: “Từ thời xưa, quần đảo Điếu Ngư  đã thuộc về Trung Quốc.” Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì đã nói rõ như vậy với người đồng nhiệm Nhật thời đó trong chuyến đi thăm Bắc Kinh của ông. Với thời xưa, người Trung Quốc có ý muốn nói tới nhà Minh. Họ mang ra một quyển sách từ năm 1403, có một tấm bản đồ chỉ cho thấy rằng quần đảo Điếu Ngư rõ ràng là thuộc về Trung Quốc.
Để làm cho sự việc thêm phức tạp, người Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền những hòn đảo này. Tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu nói vào đầu tháng Tám 2012 ở Đài Bắc: “Điếu Ngư rõ ràng là một phần cố hữu của lãnh thổ nước Cộng hòa Trung Hoa, người ta có nhìn từ quan điểm của lịch sử, của địa lý hay luật pháp quốc tế thì cũng như nhau.”
Từ 1895, Nhật Bản tuyên bố chủ quyền các hòn đảo. Sau Đệ nhị Thế chiến, các hòn đảo được chia về cho thế lực chiến thắng Hoa Kỳ trong Hiệp ước San Francisco năm 1951 (cái mà Trung Quốc không bao giờ công nhận). Hơn 20 năm sau đó, trong Okinawa Reversion Agreement năm 1971, Hoa Kỳ trao trả các hòn đảo này về cho nước Nhật. Lúc đó, Trung Quốc đã phản đối theo nghĩa vụ.
Hiện nay, các hòn đảo này thuộc về gia đình Kurihara giàu có, những người đã cho chính phủ thuê cho tới tháng Ba 2013. Trong mùa Xuân 2012,  thị trưởng Tokio Shintaro Ishihara bất thình lình tuyên bố mối quan tâm. Tokio muốn mua các hòn đảo này. Ishihara, nổi tiếng là một người dân tộc chủ nghĩa, đã sử dụng những từ ngữ thật hùng hồn cho lần chào mời của mình: “Tôi không muốn nước Nhật sẽ chấm dứt như là một Tây Tạng thứ hai”, ông nói trong một cuộc phỏng vấn với Wall Street Journal.
Thế nhưng chính phủ Nhật Bản lại không muốn các hòn đảo đó thuộc về con người dân tộc chủ nghĩa ở Tokio, và vì vậy mà đã phỏng tay trên. Họ mua ba trong số năm hòn đảo với giá 26 triệu dollar: Uotsuri (đảo lớn nhất), Kitakojima và Minamikojima.
Với hành động này, chính phủ Nhật muốn làm cho tình hình bớt căng thẳng, thế nhưng họ lại gây ra điều ngược lại: một tiếng hét vang lên ở Trung Quốc. Một làn sóng phản đối – cũng như trong mùa Thu 2010 khi một ngư dân Trung Quốc bị người Nhật bắt trong vùng biển của quần đảo Senkaku – lan đi khắp nước. Ô tô Nhật bị đập phá, cả những chiếc Toyota của cảnh sát Trung Quốc nữa. Cửa hàng và nhà máy Nhật đóng cửa phòng ngừa trước. Nhiều trò chơi máy tính với tựa đề “Bảo vệ quần đảo Điếu Ngư” lan truyền đi trong Trung Quốc.
Các nhà hoạt động của cả hai nước đi hướng ra đảo, vẫy và kéo cờ quốc gia của họ. Chính khách của hai nước dùng những từ ngữ hùng hồn. Những người cực đoan ở Bắc Kinh còn yêu cầu ném bom nguyên tử xuống Tokio. Thủ tướng Nhật lúc đó, Noda, nói trước Quốc Hội, trong trường hợp cần thiết sẽ gửi quân lính ra Senkaku, “nếu các nước láng giềng có những hành động phi pháp trên lãnh thổ của chúng ta”.
Sau một vài ngày, bạo động và la hét cũng qua đi, Thế nhưng trong những tháng sau đó luôn có máy bay và tàu thủy của cả hai quốc gia qua lại trước những hòn đảo này. Cuộc tranh chấp các hòn đảo Senkaku/Điếu Ngư sẽ tiếp tục song hành và tạo gánh nặng lên trên các quan hệ Trung-Nhật.
Lịch sử dạy cho chúng ta, rằng các quốc gia thường hay cầm lấy vũ khí từ những nguyên do được cho là nhỏ nhặt. Có ai đã nghĩ rằng năm 1982 với Argentina và Liên hiệp Anh đã có hai nhà nước văn minh bước vào chiến tranh vì một nhóm đảo có tên là Falkland ở đâu đó trên Đại Tây Dương?
Và cả Trung Quốc và Ấn Độ cũng đã có lần thù địch với nhau.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét